Câu chuyện này đã xảy ra mười chín năm về
trước nhưng nó vẫn ẩn hiện trong tâm trí tôi như sự việc mới xảy ra ngày hôm
qua...
Ðó là một buổi sáng mùa hè, khi bóng tối từ từ lui dần nhường chỗ cho ánh bình
minh đang chiếu rạng khắp nơi, tôi và Paul (người bạn thân nhất) sau khi ăn sáng
xong cùng rủ nhau vào khu rừng cạnh nông trại của bà nội bạn ấy để thám hiểm.
Khu rừng này nằm ở phía Tây Nam thuộc tiểu bang Missouri (Hoa Kỳ) không cách xa
ngọn núi Ozark lắm. Ðịa thế của nó là một vùng đồi núi mọc dầy đặc những cây
xanh to lớn. Tuy thuộc tiểu bang Missouri nhưng nó chạy dài đến tận thành phố
Kansas, đó là một nơi được nhiều người biết đến vì nó có tới một trăm, không
phải, một ngàn cái hang động. Chúng tôi đi cách nông trại vài cây số về hướng
Tây, chỉ có Thượng Ðế mới biết đất đai này thuộc về ai khi chúng tôi tìm thấy
một cái chồi cũ đổ nát. Cái chồi này bề ngang khoảng 6 thước và bề dài không hơn
8 thước, nó chỉ còn lại 3 bức tường, mái nhà thì đổ xuống dọc theo bức tường
sụp, dù vậy quý vị vẫn có thể đi vào bên trong từ cửa trước nhưng chỉ đi được
vài thước mà thôi. Là những thiếu niên 12 tuổi có tánh hiếu kỳ, chúng tôi chỉ
làm có bấy nhiêu...
Nhìn từ những phương hướng khác nhau thì nó giống như một cái lều hoặc cái chồi
được dựng lên bởi một người nào đó bị lạc đường hoặc một người chán đời muốn
sống ẩn cư vì nó trông rất là thô sơ với những khúc gỗ dài ngắn không đều nhau
được ghép lại bằng một lớp bùn khô. Bên trong chồi, ngoài dấu vết của một cái lò
củi và một cái đầu giường làm bằng tay - hầu như bị che khuất nằm ở một góc -
còn mọi thứ khác đều bị che lấp bởi mái nhà sụp đổ tạo thành một bức tường chắn
ngang không cho chúng tôi dò xét thêm.
Chúng tôi lục lọi một hồi chung quanh nơi có nhiều nhánh cây non và đá sỏi nằm
rải rác xung quanh cái sàn đầy bụi cát, vì đã lâu không ai đến đây ở nên mọi thứ
hầu như đã tàn phai theo năm tháng. Xem không thấy gì đặc biệt, với lại rời nông
trại từ sáng sớm đi bộ và leo núi đã mệt nhọc rồi bây giờ thấy cái bụng cồn cào
vì vậy chúng tôi đành rời cái chồi nhỏ để trở về nông trại ăn trưa và nghỉ ngơi
sau đó sẽ thám hiểm tiếp.
Khi rời căn nhà chồi, chúng tôi đi vòng ra sau và rất ngạc nhiên khi thấy những
dấu hiệu kỳ lạ khắc lên những khúc gỗ trên bức tường phía sau; những dấu hiệu lạ
lùng đó đa số đều bị thời tiết tàn phá nên khó mà nhận ra được là ám tự gì, nhìn
thật kỹ thì quý vị vẫn có thể thấy được vài hình vẽ như cái khuôn được nối tiếp
bằng nhiều dấu chấm giống như toán hình học, những hình không tương xứng. Có vài
dấu hiệu đối với chúng tôi thì giống như là những chữ Phạn ngữ vào thời xa xưa,
thật ra thì cũng không giống lắm. Rất tiếc tôi không còn nhớ rõ để vẽ ra làm thí
dụ.
Chúng tôi dò thám xa hơn thì thấy cách đó khoảng sáu thước, từ bức tường sau căn
nhà chồi, chúng tôi thấy một tấm ván lớn gần mục nát, hình như nó được đậy trên
một cái lỗ. Chúng tôi vội đến đó cúi xuống khảo sát gần hơn. Nơi đây chúng tôi
lại thấy những dấu hiệu, giống như dấu hiệu viết trên bức tường sau, vẽ tràn lan
trên tấm ván gỗ đó. Nó bị thời tiết phá hủy nên khó mà nhận ra được là chữ gì.
Tôi lấy ngón tay trỏ thử nhấn mạnh quanh bìa miếng gỗ, lúc đó chúng tôi cảm giác
lành lạnh hình như không khí đang thoát ra ngoài theo những chỗ hở mà tôi đã
làm.
- Tao chắc rằng đây là một cái nắp đậy lối vào của một hang động. Tôi nói.
Paul vội tiếp lời:
- Chúng ta thử xem.
Nói xong bạn ấy liền đứng dậy tìm những cục đá lớn nhỏ chất đầy trên tấm ván,
sau đó bạn ấy lấy một tảng đá thật lớn giơ cao hơn đầu rồi liệng thật mạnh xuống
ngay chính giữa làm tấm ván gỗ nát ra thành nhiều mảnh để lộ ra một cái lỗ lớn;
chúng tôi có thể nói đó là lối vào của một hang động.
Chúng tôi rụt rè thò cái đầu vào hang động để xem chiều sâu của nó là bao nhiêu.
Chúng tôi lấy làm thích thú lẫn ngạc nhiên thấy rằng đầu dốc hơi nghiêng nằm
trong bóng tối không có sâu lắm và có thể đi vào được. Vui mừng vì sự thám hiểm
tìm kiếm của chính chúng tôi về cái hang động này nên chúng tôi bàn tính phải
nhanh chân trở về nông trại để lấy đèn bin, dây nhợ, và đem theo một mớ đồ ăn
trưa.
Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn thảo với nhau rằng nếu bị bắt quả tang
trong khi lấy những vật dụng đó thì không nên nói sự thật cho mọi người biết.
Paul thận trọng nói:
- Ba mẹ của chúng ta sẽ không để cho chúng ta chui vào hang động thám hiểm một
mình đâu nếu không có người giám sát coi chừng chúng ta.
Tôi gật đầu đồng ý.
Chúng tôi chạy thật nhanh, nhanh đến nỗi chúng tôi trở về nông trại chưa đầy một
tiếng đồng hồ. Mặt trời lúc đó ngay trên đỉnh đầu và rất nóng vì đang cuối hè.
Về đến nơi, thay vì đem theo đồ ăn trưa, chúng tôi đổi ý ăn cơm trưa tại nhà.
Chúng tôi ăn thật nhanh rồi gom vội những vật dụng cần thiết - may thay không có
ai thấy - sau đó, chúng tôi bay ra khỏi nhà trong tích tắc.
Chúng tôi mang theo hai cây đèn bin, một cuộn dây thừng rắn chắc dài khoảng 35
thước, và một bình nước uống rồi đi thẳng vào rừng sâu.
Vì vị trí căn chồi này không nằm trên bản đồ nên chúng tôi phải đi quanh co để
định hướng, cuối cùng trèo lên đỉnh của một ngọn đồi thấp chúng tôi mới nhìn
thấy cái chồi đổ nát và miệng của hang động.
Lần này, chúng tôi có cảm giác bất an, hình như có gì đó không được bình thường,
không khí chung quanh có mùi hôi hám rất là khó ngửi.
Chúng tôi dừng lại xem xét những dấu hiệu lạ lùng trên bức tường một vài giây
trước khi đi vào hang động; thật khó mà biết được những dấu tích bí ẩn này tượng
trưng cho cái gì, hoặc có ý nghĩa gì. Mặc kệ cái cảm giác khó chịu từ lúc đầu
bao quanh, Paul và tôi cũng không để cho sự yếu đuối của mình cản trở cuộc thám
hiểm sâu vào hang động.
Chúng tôi cột một đầu dây trong một thân cây khô gần miệng hang động vài thước
còn đầu kia thì bỏ xuống lỗ hang, vì là người đã tìm được nhiều hang động trong
vùng hơn tôi nên Paul dành đi trước để rọi đường. Paul bò đến gần miệng hang và
bám lấy sợi dây từ từ bò vào hang động. Vừa bò bạn ấy vừa bấm sáng đèn bin rọi
xuống dưới hang, lúc đó chúng tôi mới biết rằng cái hang động này còn đi xuống
sâu nữa để rồi chìm khuất trong bóng tối. Ðứng trên miệng hang dõi mắt nhìn theo
bạn ấy, tôi đợi chờ bạn ấy báo hiệu rằng trong hang động rất là an toàn có thể
xuống. Chưa đầy 30 giây sau, tôi nghe vang lên một tiếng la kinh hãi của Paul
theo sau là một tiếng “bụp”.
- Chuyện gì? Tôi la lớn.
- Ồ, không có gì. Tao nghĩ đi xuống tí nữa thì sẽ tới cuối hang nhưng bất ngờ
hết dây tao bị rơi thẳng xuống dốc, may mắn thay chỉ rơi khoảng 1 thước. Bạn ấy
trả lời.
- Bây giờ mày có thể xuống được rồi, đi từ từ thôi và coi chừng cái chỗ rơi
thẳng xuống đó.
Mặc dù không thấy dễ chịu lắm, tôi cũng nắm sợi dây và bắt đầu đi xuống vào
trong hang tối. Ðến hết sợi dây tôi từ từ thả mình nhẹ nhàng rơi xuống đất. Khi
đứng ở dưới an toàn tôi mới nhìn lên cái miệng hang nhỏ xíu cao khoảng 13 thước
mà chúng tôi vừa chui vào, sau đó tôi nhìn ở phía trước con đường hầm của hang
động giống như một cái mạch mỏ than đá chỉ trừ là nó lấp lánh với măng đá và
chuông đá. Tôi thấy bên trong hang này chiều cao khoảng 2 thước và chiều ngang
gần 3 thước, nó rất ẩm ướt nhưng không thấy có nước đọng lại, đó có nghĩa là nó
còn đi xuống sâu hơn nữa.
Cẩn thận bước qua chướng ngại do sự hình thành của hang động tạo ra, chúng tôi
đi sâu vào hang động. Ðường hầm dẫn xuống sâu và sâu hơn như cái vực thẳm.
Càng đi xuống sâu vào lòng đất, tôi càng kinh ngạc bởi thiếu vắng sự hiện hữu
của những côn trùng và động vật. Cho dù trong hang động nhỏ, quý vị vẫn có thể
tìm thấy phân của côn trùng hoặc những cái màng nhện nhưng trong hang động này
thì hoàn toàn không thấy dấu tích của bất cứ sự sống nào; còn một điều kỳ lạ nữa
mà chúng tôi để ý đến là càng đi xuống sâu hơn thì nhiệt độ lại càng ấm áp hơn
thay vì càng ngày càng lạnh hơn. Quý vị cũng biết cho dù chỉ có vài thước dưới
lòng đất thì nhiệt độ cũng đã xuống thấp khoảng 10 đến 15 độ rồi, nhưng nhiệt độ
trong hang động này lại ấm áp lạ thường và không khí dường như bị tù hãm và nặng
nề.
Chúng tôi tiếp tục đi xuống qua cái đường hầm dài giống như một cầu thang xoắn
ốc không có bậc thang cho đến khi nó nhỏ hẹp lại và thẳng dốc hơn. Từ lúc đầu
chúng tôi không cần dùng dây hay dụng cụ an toàn nào thì bây giờ chúng tôi phải
cẩn thận để ý nhiều hơn. Tại điểm này chúng tôi đã ở dưới lòng đất gần sáu chục
thước, nhưng không có một dấu hiệu nào cho thấy ở dưới này còn hang động khác để
thám hiểm thêm. “Thật ra, cái hang động này cũng đáng để thám hiểm lắm” tôi nghĩ
như vậy.
Sau 15 phút hơn liên tục đi xuống, Paul và tôi cuối cùng đã đến đáy của đường
hầm xoắn óc, đến tận cùng rồi. Ðó có thể là hết cuộc thám hiểm nếu chúng tôi
không thấy một cái lỗ nhỏ gần mặt đất. Nó cao khoảng ½ thước và chiều ngang
khoảng 1/3 thước. Paul nằm dài xuống mặt đất, lấy đèn bin rọi vào trong lỗ rồi
đút cái đầu vào.
- Hay quá. Bạn ấy nói với một giọng vui mừng. Có một thành hốc khác. Tao nghĩ
chúng ta có thể chui qua cái lỗ này. Ðể tao thử xem.
Bạn ấy chui vào cái lỗ, thân mình trường tới rồi uốn qua uốn lại như con rắn
cuối cùng cũng qua được. Biết rằng chỉ ốm hơn Paul một tí ti như vậy thì tôi sẽ
không gặp nhiều khó khăn. Sau những cái uốn qua uốn lại, tôi đã qua được. Vừa
phủi bụi từ quần áo xuống tôi vừa đứng thẳng lên chiếu đèn bin chung quanh xem
xét. Cái thành hốc này có một cảm giác kỳ quái lắm, dù vậy chúng tôi cũng không
thấy có gì khác thường hết.
Trần thành hốc cao ít nhất 10 thước và riêng cái phòng ốc này đường kính có lẽ
rộng từ 12 đến 15 thước. Ở trên tường hoặc dưới đất tại đây tương đối nhẵn, trần
nhà và cái sàn đều không dính một chút bụi bậm. Người ta có thể đoán cái phòng
ốc này là cái lỗ rỗng của một cái giếng nước trong lòng đất nhưng vẫn giữ khô
ráo từ lúc nước rút xuống. Chúng tôi rọi đèn bin lên tường tìm kiếm đến khi tôi
ra ý kiến hãy tắt đèn để xem nó thật sự tối đến đâu (đó là một sự thích thú để
làm trong hang động vì không có bóng tối nào có thể so sánh được). Quý vị có thể
tưởng tượng sự sửng sốt của chúng tôi khi chúng tôi tắt đèn mà vẫn có thể thấy
mặt của nhau trong cái hang hoàn toàn đen tối không?
Không có bất cứ một nguồn ánh sáng nào mà toàn bộ phòng ốc lại tỏa sáng một màu
đỏ chói. Bức tường có vẻ chiếu sáng và sống động một màu đỏ đậm và sáng hơn với
mỗi thời khắc trôi qua, dường như chúng tôi đang đánh thức nó dậy từ một giấc
ngủ ngàn năm. Chúng tôi mở đèn bin lên và bắt đầu kiếm chung quanh phòng để tìm
ra manh mối vì sao bức tường lại phát ra ánh sáng kỳ lạ như vậy.
Xa trong một góc phòng, ánh đèn bin của tôi phát hiện một hiện tượng vô cùng
rùng rợn.
Tôi thấy cái gì đó trông giống những khúc xương khô trong bộ quần áo rách rưới
nằm chung quanh một cái sọ vỡ; và gần đó cách khoảng nửa thước lại có một cái sọ
khác, cái sọ này được chẻ cẩn thận ra làm đôi và cũng nằm cạnh những khúc xương
vụn nhưng nhỏ hơn. Trong đống này, tôi thấy cái gì đó như miếng vải len viền áo
của một đứa bé gái hoặc áo đầm của phụ nữ. Paul cũng để ý đến những gì mà tôi
đang chăm chú nhìn mà cả hai đều không thể tưởng tượng được. Vừa dự định đến gần
hơn để nhìn cho kỹ, bỗng nhiên tôi nghe một tiếng nói làm ớn lạnh đến tận
xương tủy.
Tôi rõ ràng nghe một tiếng con gái nói thầm thì trong tai. “Ði ra!” tiếp theo
tiếng nói như thúc giục. “Chạy đi!”
Tôi sợ quá nhìn Paul và bạn ấy cũng đã nghe thấy, lúc đó chúng tôi lùi dần gần
đến lỗ ra của phòng ốc.
Bỗng dưng cái sàn rung chuyển và một tiếng kêu vo ve bắt đầu vang dội cả phòng
ốc. Tôi quá kinh hãi chạy thụt lùi lại, Paul nhanh chân chạy theo. Mặt đất rung
động thật mạnh, tôi sợ đó là dấu hiệu của sự động đất và cái phòng ốc này sẽ sập
xuống chôn vùi chúng tôi.
Tôi đã chạy đến lỗ ra của phòng ốc mà nó bây giờ trông nhỏ xíu không khác cái lỗ
con chuột nhũi, tôi chui vào cái lỗ trườn tới và uốn qua uốn lại. Ở phía sau tôi
nghe Paul hối thúc, khép hai chân lại tôi lấy cùi chỏ chống thân mình cố gắng
đẩy về phía trước. Sau khi trở ra con đường hầm, tôi quay người lại giúp Paul.
Bạn ấy gắng sức trường tới, nhưng cũng không thể chui qua nhanh được.
Nếu không hiểu biết, tôi còn tưởng cái lỗ đó nó teo lại trước cặp mắt của tôi
nữa.
Paul cứ gắng sức và gắng sức chui ra nhưng vẫn không qua lọt. Tôi vội liệng cái
đèn bin xuống đất rồi lấy hai tay kéo bạn ấy. “Ouch” (Ao) Bạn ấy la lớn. Tôi
nghĩ có lẽ mình kéo mạnh quá nên Paul đau, nhưng bạn ấy nhìn tôi với cặp mắt sợ
hãi với giọng nói run run:
- Có gì đó nắm chân của tao! Có gì đó nắm chân tao! Kéo mạnh lên. Bạn ấy hét.
Dồn hết sức, tôi kéo mạnh một lần nữa, cuối cùng bạn ấy cũng qua được. Khi đôi
chân của bạn ấy vừa ra khỏi lỗ thì tôi nhận thấy, từ ánh đèn bin tôi đã liệng
dưới đất, có dấu giống như dấu tay - một bàn tay mà không giống một bàn tay - in
trên bắp đùi của bạn ấy. Nó có hình thù lồi lõm của một bàn tay quá cỡ hoặc là
bàn chân không có móng. Nó gần giống như một cái bóng, trong suốt. Ðó là tất cả
những gì mà tôi trông thấy bởi vì khi Paul vừa ra khỏi lỗ, bạn ấy đứng dậy chạy
thật nhanh và tôi cũng quay đầu chạy theo bỏ cả cái đèn bin của tôi ở đó.
Tại vì Paul vẫn còn đèn pin nên tôi lên tiếng Paul hãy chờ tôi với, nghe tôi kêu
bạn ấy chạy hơi chậm lại vừa đủ để tôi bắt kịp.
Chỉ trong chốc lát, tiếng vo ve ngân lên càng lớn và lớn hơn, ánh sáng từ cái
phòng ốc bên dưới bắt đầu chiếu sáng con đường hầm; từ phía sau chúng tôi có một
mùi hôi như thịt thối bắt đầu bao trùm lấy chúng tôi. Nó thúi đến nỗi chúng tôi muốn
chết nghẹt luôn.
Chúng tôi té lên té xuống, ra sức chạy càng nhanh càng tốt. Tác dụng xoắn óc của đường
hầm làm mất hướng và nỗi khiếp sợ bắt đầu xâm chiếm lấy chúng tôi. Nếu Paul
không bị té hay đụng đầu thì tôi lại bị, lối thoát dẫn đến mặt đất có vẻ dài vô
tận. Chúng tôi đã quẹo và trèo lên nhiều lần, thay vì cái ánh sáng từ bên dưới
phải rời xa ở đằng sau chúng tôi nhưng nó lại càng ngày càng gần hơn, sáng hơn,
chiếu sáng cả đường hầm bên dưới một màu đỏ như máu. Cuối cùng, chúng tôi đã đến
đường hầm dài và thẳng hơn cũng là nơi dẫn đến rìa dốc cuối của lối ra hang
động. Paul và tôi cố lấy sức chạy nhanh để lấy khoảng cách xa giữa chúng tôi và
ánh sáng bên dưới và hầu như để chạy trốn mùi hôi thúi; nhưng, tiếng vo ve vẫn
càng ngày càng lớn trong một mức độ cao hơn như là tiếng còi hụ của đoàn tàu xe
lửa.
Paul và tôi đến rìa dốc cùng một lúc, nhưng cả hai chúng tôi đều bàng hoàng vì
không thấy ánh sáng chiếu vào từ cửa hang, tất cả đều chìm trong bóng tối.
Chúng tôi chỉ ở trong hang khoảng ba mươi phút thôi, có nghĩa bây giờ bên ngoài
vẫn còn là buổi trưa, nhưng sao chúng tôi không thấy ánh mặt trời rọi vào. Paul
rọi đèn bin lên nơi cái lỗ hang mà chúng tôi đã chui vào làm chúng tôi sợ run cả
người... sợi dây đã biến mất và miệng hang đã bị lấp lại bằng một tấm ván gỗ mà
trước đây đã đậy. Paul và tôi cùng nhảy lên dốc và bắt đầu lê cái thân về phía
cửa hang. Nó không có dốc lắm nhưng cứ leo lên được hơn 1/2 thước thì chúng tôi
lại bị tuột xuống ¼ thước, vì vậy mà hơi chậm. Ánh sáng bên dưới lại bắt đầu xâm
lấn chúng tôi, tiếng vo ve vang dội hơn và vẫn còn ở mức độ cao. Chúng tôi cuối
cùng đã đến cửa hang và bắt đầu tìm cách để thoát ra ngoài. Chúng tôi đẩy và đẩy
cái tấm gỗ nhưng nặng quá chúng tôi đành chịu thua.
Không còn cách nào khác, chúng tôi đành la lớn để cầu cứu, vừa la chúng tôi vừa
lấy tay đập mạnh trên tấm ván gỗ. Ánh sáng bên dưới hình như đã đến cái dốc cuối
và nó đang lao về phía chúng tôi với một vận tốc nhanh như chớp.
Chúng tôi vừa bịt mắt lại vì ánh sáng chói lòe vừa la thật lớn muốn bể lồng
ngực. Tự nhiên tức thì, ánh sáng bỗng mờ dần và biến mất trong bóng tối giống
như nó rút từ trần nhà xuống sàn như một cơn sóng nước; tiếng vo ve chợt tắt hẳn
và mùi hôi thúi cũng tiêu mất, lúc đó chỉ còn lại tiếng thở nặng nề của hai đứa
chúng tôi mà thôi.
- Caaái giiii`... caaái giiii`... vaaậy? Tôi hỏi và cố gắng lấy lại hơi thở đã
mất vì sợ hãi.
Tao không biết. Hãy tìm cách ra khỏi đây đi. Paul trả lời rồi bạn ấy chiếu đèn
bin vòng quanh bìa cái nắp gỗ để tìm xem có gì để chúng tôi có thể dùng làm một
điểm bắt đầu không. Sau đó, hai đứa chúng tôi lại đập lên tấm ván gỗ.
Rồi không dấu hiệu cảnh cáo hay báo trước, chúng tôi bỗng nghe rầm bên dưới theo
sau là một tiếng mà đã đem cho tôi ác mộng đến ngày hôm nay, một tiếng ùn ục rợn
người đang dâng lên đường hầm như vũ bão. Ðèn bin của Paul chợt tắc và chúng tôi
bị chìm vào trong bóng tối, hoàn toàn tăm tối. Tiếng ùn ục càng ngày càng đến
gần, bây giờ chúng tôi quá độ kinh sợ để mà la lên. Tôi nhớ là mình đã dựa sát
vào tường đá toàn thân đơ cứng vì sợ hãi. Tôi không thể nói, không thể cựa quậy,
không thể thấy, mà chỉ biết im lặng để lắng nghe trong khi tiếng ùn ục bắt đầu
chuyển thành như một tiếng hú khi nó bay lên đường hầm hướng về phía chúng tôi
giống như một chiếc xe lửa điện chạy 100 km/giờ. Không khí bừng nóng cùng với
một cơn gió rít xoáy mạnh chung quanh chúng tôi xen lẫn với tiếng kêu gào của
một đứa con gái ngay trong tai tôi.
Trong lúc tôi như muốn xỉu vì quá sợ thì cảm thấy có gì đó hơi cứng lao nhanh
qua chúng tôi rồi phóng vào nắp gỗ như một viên đạn pháo vô hình. Những mảnh gỗ
bể rớt xuống và ánh sáng mặt trời tràn vào làm hiện rõ khuôn mặt sợ sệt của
chúng tôi. Như đọc được tư tưởng của nhau, chúng tôi phóng khỏi hang động, tôi
trước sau đó đến Paul. Chúng tôi nhanh nhẩu đứng dậy phủi hết lớp bụi bậm dính
quần áo. Không biết là nên chạy hay ngã quỵ, chúng tôi nhìn nhau đợi chờ xem ai
hành động trước thì một người đàn ông mặc áo len đi vòng ra từ cửa trước căn
chồi, tóc ông ấy dài và bù xù, trên khuôn mặt cằn cõi của ông có nhiều nếp nhăn
ngang dọc.
Ðôi chân muốn chạy nhưng đầu óc lại bất đồng, có gì đó về người đàn ông này đã
làm chúng tôi ở lại, cái gì đó không đe dọa mà lại rất an lành. Ông ta bước từng
bước chầm chậm đến chúng tôi, trong khi tiếng rú cứ lớn dần như thể nó đang từ
hang động bay vút ra ngoài, lượn một vòng chung quanh những thân cây ở gần đó để
trở lại thanh toán chúng tôi; chúng tôi nghe tiếng cây gẫy răn rắt trong khoảng
cách như là nó đang ủi tất cả những gì cản đường nó. Một lần nữa, chúng tôi lại
đứng chết trân trong sợ hãi, yếu sức để ngăn chận cái gì đó đang bay nhanh về
hướng mình. Lúc này, người đàn ông với vẻ mặt lo âu khi vừa mới xuất hiện bây
giờ đã biến thành một vẻ mặt cương quyết như sắt đá, ông ta giơ cao hai cánh tay
lên trời và bắt đầu đọc lẩm bẩm vài câu ngôn ngữ gì đó mà chúng tôi không thể
nhận ra hay hiểu được.
Tiếng hú càng ngày càng lớn vang vọng cả núi đồi. Giờ đây chúng tôi mới thấy
được một cái bóng màu đen, giống như một cụm mây đen như nhọ nồi nhưng chưa đủ
để kết thành một khối đặt. Nó bay xuống đồi, làm gẫy rạp những cây cối nhỏ ở
giữa nó như là những cây diêm quẹt nằm trong hộp. Ông già hốc hác liền bước tới
chận đứng con đường của nó tiến về phía chúng tôi, rồi ông ta tiếp tục lẩm bẩm
những ngôn ngữ kỳ lạ. Lúc này, những lời ông đọc dường như vang xa và dội lại
xuyên qua rừng núi như tiếng hú của một con chó sói.
Quái vật dường như chậm lại, và nếu có chân, nó đang lùi bước.
Ánh sáng lại bắt đầu phát ra từ lối vào hang động, nhưng lần này không phải là
màu đỏ như máu chúng tôi đã thấy khi trong hang động mà là một ánh sáng màu
trắng, nó chói sáng đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thẳng vào nó được. Hình như
quái vật đang chống cự lại cái ánh sáng này, nhưng thất bại, nó đã bị lôi xuống
lỗ và thét lên một tiếng nghe điếc tay để kháng cự.
Ánh sáng chói loà đó dường như bao trùm con quái vật và đưa nó về trong lòng đất
sâu. Tiếng la rên rỉ đã lặng yên, ánh sáng rút xuống sâu trong hang động cùng
với tù nhân của nó rất nhanh chóng như khi xuất hiện.
Bàng hoàng với những gì không thể tưởng được làm chúng tôi sửng sốt chỉ biết
đứng nhìn chăm chú vào ông già. Sau khi ánh sáng cùng quái vật rút xuống hang
động, ông ta mới đi tới cái miệng hang rồi vẫy tay một cái thì tấm gỗ đậy bị bể
lại một lần nữa thành nguyên vẹn. Những dấu hiệu mà chúng tôi thấy trước đó bây
giờ lại từ từ hiện ra như mới được khắc lên trên tấm ván. Sau khi làm xong nhiệm
vụ, ông già mới chú ý đến chúng tôi và hỏi chúng tôi có bị thương tích không.
Paul và tôi cùng xem xét thân thể, ngoại trừ trầy da đầu gối và khuỷu tay ra
chúng tôi chỉ bị dơ quần áo vì đất cát với mồ hôi nhỏ giọt, vì vậy chúng tôi chỉ
gật đầu mà không nói gì.
- Hai đứa đã gần tiêu tại đây rồi. Ông già nói.
- Ai?... Ý tôi là... Cái gì đó? Paul nói lắp bắp.
- Nó ác, dữ tợn và bất diệt. Các con có thể gọi nó là yêu ma hay ác quỷ.
Ông ta ngừng khoảng một chốc rồi tiếp:
- Nó là cả hai mà không phải cả hai.
Ông ta nói với một giọng trầm xuống.
- Ðiều quan trọng là nó không thể ăn nữa, nó càng mạnh mẽ hơn nếu nó ăn được.
Nói đến đây gương mặt ông già bỗng trở nên âu sầu, ông ta đi qua mặt chúng tôi
bước về hướng căn chồi đến cái bức tường hậu hướng vách với cửa vào hang động.
Ông ta tụng vài câu ngôn ngữ lạ kỳ và những dấu hiệu như biến mất bây giờ lại
xuất hiện, nhìn rất mới như vừa được khắc lên. Sau đó ông ta đi vòng ra đằng
trước chồi rồi biến mất.
Paul và tôi nhìn nhau không nói một lời nào rồi cùng chạy theo ông già vòng ra
đằng trước căn chồi sụp để hỏi ông già thêm vài thông tin.
Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi không tìm thấy dấu vết gì cả, chỉ vài giây
thôi sao ông già lại đi nhanh thế, ông ta chắc chắn không có vào trong chồi để
ẩn núp. Chúng tôi gọi lớn, chạy vòng quanh căn chồi, chạy cả lên trên đồi để
nhìn xem ông ta có chạy trốn không, nhưng cũng không thấy bóng dáng ông ta đâu
hết. Lạ thật, sao không có dấu chân cũng không nghe tiếng chân đi, dường như ông
ấy đã biến mất như làn khói mỏng manh.
Bây giờ với tình trạng ngỡ ngàng và bối rối, chúng tôi lại trở vào căn chồi để
xác định rằng ông ta không có trốn ở trong đó. Lần này chúng tôi đẩy cái mái nhà
bị xụp đổ để tìm kiếm và chúng tôi đã tìm được... Một cái xác cứng đơ gần như
mục rã hết của một người đàn ông mặc đồ giống hệt như ông già đã giúp chúng tôi
chỉ vài phút trước đây. Trong lòng bàn tay của xác chết chúng tôi thấy có một
tấm hình trắng đen cũ rích nằm trong một cái khung bể sậm màu.
Paul nhẹ nhàng lấy tấm hình đó từ tay của thi thể rồi đưa lên nơi có ánh nắng
rọi vào. Trong hình là một người đàn ông khỏe mạnh, có lẽ đó là hình dáng của
ông ta lúc còn trẻ đã cùng với người vợ và đứa con gái đứng chụp trước một nông
trại sang trọng trông họ rất là hạnh phúc.
Paul để tấm hình lại chỗ cũ. Lúc đó, chúng tôi để ý thấy cái gì đó nằm gần chân
giường, tôi cúi xuống phủi lớp bụi bám ở trên mới biết đó là một quyển sách. Tôi
cầm lên và mở ra xem từng trang. Đó là một quyển nhật ký.
- Tao chắc rằng mình sẽ tìm được những câu trả lời ở trong đây. Tôi vừa nói vừa
kẹp nó vào nách. Thôi chúng ta hãy rời khỏi chỗ này ngay đi.
- Tao cũng nghĩ vậy! Paul nói.
Chúng tôi lại lấy tay đẩy những thứ đồ nằm chắn đường để vạch lối đi ra. Sau khi
rời khỏi căn nhà chồi chúng tôi chạy một mạch về nông trại như những con ong bay
nhanh về tổ, và con đường về nhà lần này sao chúng tôi thấy dài vô tận. Chúng
tôi hai đứa không nói một câu gì trên con đường về, mỗi đứa đều ngẫm nghĩ và ước
luợng những sự việc vừa mới trải qua.
Vừa đến nông trại chúng tôi vội tắm cho sạch sẽ bằng cái vòi nước ở sau vườn rồi
chúng tôi vào trong nhà uống vài ly nước lạnh, lúc đó chúng tôi mới biết rằng
không có đứa nào đem bi đong đựng nước về. (Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết
việc gì đã xảy ra cho những bình nước uống và sợi dây thừng! Có thể nó bị rớt
đâu đó trong đường hầm khi chúng tôi trên đường tìm cách thoát thân.)
Khi cảm thấy khỏe khoắn và tương đối an toàn, chúng tôi mới lấy cuốn nhật ký cũ
gần rách nát đem lên một căn phòng trống trên lầu và bắt đầu đọc từng trang. Hầu
hết những sự việc trong quyển nhật ký này đều nói về hang động và gì đó ở dưới
lòng đất mà chúng tôi không hiểu vào thời đó. Những trang sách đều ghi đầy những
ý nghĩ rối loạn và vắn tắc, còn chữ viết thì khỏi nói rất khó đọc. Cho đến vài
năm sau này đọc đi đọc lại nhiều lần thì tôi mới có thể hiểu được một chút ít về
sự việc đã xảy ra chung quanh hang động.
Từ đó tôi mới biết rằng:
Vào cuối năm 1890, ông cùng vợ và đứa con gái đã dọn đến vùng đồi núi xây một
căn nhà thật đẹp. Họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi và trồng hoa màu trên mảnh
đất mà họ làm chủ.
Có một ngày, đứa con gái đi vào rừng để thám hiểm cùng với người bạn ở cạnh
nhà... Ðây chỉ là một cuộc thám hiểm bình thường thôi bởi vì theo ông ta ghi
chép, đứa con gái của ông ta thà là phiêu lưu mạo hiểm, luôn luôn vào rừng để
thám hiểm, nếu không đi hướng này này thì con gái của ông cũng đi hướng kia, chứ
không chịu ở nhà.
Từ khi bị té trật chân không tự một mình về nhà đã làm mọi người lo lắng đổ xô
đi tìm mới thấy cô con gái ngồi ở dưới một gốc cây trong rừng, từ đó thì ba mẹ
cô gái bắt buộc cô ta muốn vào rừng thì phải rủ thêm một người nữa cùng đi nếu
không thì cô không thể vào rừng được.
Và vào một ngày mùa thu, khi cả khu rừng nhuộm một màu vàng úa, cô bé cùng một
người bạn gái đã vào rừng thám hiểm và không bao giờ trở ra nữa.
Tối hôm đó, ông ta và vợ cùng với gia đình người bạn gái tìm kiếm khắp khu rừng;
cho đến cả ngày hôm sau, cảnh sát trưởng cùng những nhân viên đều chia nhau đi
tìm, và những gia đình hàng xóm cũng góp tay trong việc tìm kiếm. Mặc dù tất cả
mọi người kiếm tìm khắp nơi nhưng hai cô con gái vẫn biệt tích. Hai tuần trôi
qua, không thể chịu được, ông ta cùng với người vợ tiếp tục lục soát từng con
đường mòn đến từng hang động chung quanh nơi ở của họ. Trong lúc tìm kiếm, họ đã
khám phá ra lối vào của một hang động mà từ trước đến giờ không ai biết nó hiện
hữu. Lo sợ cho đứa con gái cũng đã khám ra cái hang động này nên họ quyết định
đi vào để xem.
Vào hang động được hơn một thước, người mẹ tìm được sợi vải cột tóc thường ngày
của đứa con gái dính đầy máu khô. Ðiên cuồng và mất trí với nỗi đau thương,
người mẹ bắt đầu chạy xuống xâu hơn nữa. Người đàn ông, từ từ đi khập khễng vì
bị bong gân mắt cá chân khi mới bước chân vào hang động, vì vậy mà khó có thể
thuyết phục người vợ dừng lại đợi chờ ông ta. Ông ta khuyên răn người vợ nên trở
về nhà để kéo thêm người đến giúp.
Mặc ông ta có khẩn thiết van xin bà hãy trở lại nhưng người vợ vì quá nóng lòng
tìm con nên bà ta cứ cấm đầu chạy xuống hang động tối đen, bà ta vừa chạy vừa
gào thét tên đứa con gái của bà. Biết rằng chân mình bị trật không thể nào vào
sâu trong hang động được nên ông ta đành ở lại cạnh lối vào hang để chờ đợi và
lắng nghe tiếng vợ của ông ra hiệu hoặc trở lại với những gì mà bà ta tìm được.
Đó là lần cuối cùng mà ông thấy vợ của mình còn sống.
Ông ta nghe được tiếng vợ mình kêu tên của đứa con gái, Emily, lập đi lập lại
nhiều lần, và từ từ nhỏ dần khi bà ta xuống sâu dưới hang động. Rồi, không một
dấu hiệu báo trước có điều không may xảy ra, ông ta bỗng nghe vợ ông ta thét lên
một tiếng kinh hoàng. Nhắm mắt lại trong nỗi buồn tuyệt vọng, nghĩ rằng vợ ông
đã tìm thấy thân xác nhỏ bé của con gái mình nên ông gọi vọng vào, nhưng không
một tiếng đáp lại. Vào lúc đó ông mới nếm được những gì mà tôi và Paul đã chịu
đựng.
Những gì ông ta cảm nhận và chứng kiến cũng giống những gì chúng tôi đã kinh
nghiệm được, bắt đầu như là một trận động đất rung chuyển. Ông ta gọi vợ hãy trở
lên vì sợ bà ta bị chôn vùi nhưng không một tiếng trả lời. Sau đó ông nghe thấy
tiếng vo ve càng ngày càng lớn vang lên, tiếng kêu lạ kỳ không phải người. Sợ đó
có thể là dã thú, nên ông cố gắng bò ra ngoài. Ông vội vã rời xa hang động đến
núp sau một thân cây ngay dưới chân đồi gần đó.
Ông ta nghe cái tiếng rú càng ngày càng lớn và thấy một ánh sáng màu đỏ chói
chiếu ra từ hang động, khi ánh sáng đỏ tan mất thì một cái bóng đen phóng ra
khỏi hang như một viên pháo đại bác.
Cái bóng đen bay lên không khoảng 20 thước rồi quay trở về, hình như nó đang cầm
gì đó. Khi nó đáp xuống đất, ông ta mới thấy đó là một cánh tay của vợ ông. Ông
ta thấy cánh tay đã bị xé ra máu chảy đầy miếng vải màu xanh bị rách nát từ
chiếc áo đầm vợ ông mặc. Cái bóng đen tiếp tục ăn... nó xé thịt ra từng mảnh,
máu chảy đầy dẫy, dường nó cần máu hơn là cần thịt.
Ông ta viết rằng khi quái vật dính đầy máu thì nó trở nên cứng rắn hơn.
Biết rằng quái vật vừa mới giết vợ mình, và cả đứa con gái cùng người bạn, ông
nhè nhẹ lén đi ra sau ngọn đồi, rồi chạy nhanh một mạch về nhà mặc cho chân mình
xưng lên và đau buốt. Oán hận và tức giận với sự đau buồn, ông phóng nhanh vào
nhà chụp ngay cây súng, nhét thật nhiều bao đạn vào trong túi áo và bỏ đạn vào
khẩu súng rồi lên đạn. Để trả thù, ông bắt đầu chạy trở lại chỗ ẩn núp gần chân
núi nhưng không thấy bóng con quái vật đâu. Ông ta cẩn thận bò từ từ đến nơi xảy
ra cảnh hãi hùng gần cửa hang. Máu dính đầy trên cỏ và lá khô, những mảnh áo đầm
của vợ ông bị xé nát từng sợi khó mà nhận ra được. Có những mảnh thịt nhỏ đỏ
tươi nằm rải rác chung quanh, nhưng không có mảnh nào lớn để đủ nhận biết đó là
con người.
Đau lòng tận cùng, ông quỵ xuống và bắt đầu khóc như mưa. Ông ở đó vài phút, bàn
tay ông di động trên những miếng thịt vụn máu me để tìm kiếm vài thứ gì đó có
thể nhận diện ra, như là những cọng tóc từ cái đầu của vợ ông bị dính trên một
mảnh vải rách. Cảnh tượng người vợ và đứa con gái chết thảm thiết cứ ám ảnh
trong đầu ông và lần nữa ông lại điên lên với cơn giận tột đỉnh. Ông ta đứng
dậy, giơ cao cây súng rồi kêu lớn để con quái vật ra ngoài. Ông la lớn xuống
hang, ông hét lớn vào thinh không, ông gào thét điên cuồng. Chẳng bao lâu con
quái vật xuất hiện.
Tiếng hú vang dội trên đồi sau lưng ông là con quái vật, bây giờ gần như rắn
chắc hơn.
Ông diễn tả con quái vật: Nó là một con vật màu đen có một lớp da dầy, mỗi lần
nó di chuyển có một làn khói đen bay theo giống như cục than đen đang cháy bị
giội nước lăn long lóc xuống đồi. Cặp mắt của nó màu đỏ chói như hai cái giùi
nóng. Con quái vật lao đến ông, đôi tay của nó dang rộng với móng vuốt nhọn hoắc
như dao lưỡi lìm sẵn sàng cắt ông ra làm hai khúc. Ông bình tĩnh cầm súng nhắm
và chờ đợi đến phút cuối cùng khi ông cảm thấy hơi thở nóng bỏng phà vào mặt lúc
đó ông mới bóp cò. Cái thân trên của con quái vật nổ tung thành một đám bụi đen
nhưng thân dưới của nó vẫn còn tiếp tục tiến tới vật mạnh ông xuống đất rồi đè
lên thân thể ông.
Nó quằn quại co giật trên người ông trong khi ông vùng vẫy bên dưới sức nặng của
nó, nhưng từ từ nó biến thành đám bụi đen không có trọng lượng rơi xuống như
đống tro tàn. Cuối cùng ông đã có thể đứng dậy. Ông lấy lại hơi thở rồi nhìn
chung quanh, bỗng một luồng gió không biết từ đâu thổi đến rất mạnh mẽ, nó là
một lực hút từ sau lưng ông kéo theo không khí chung quanh rồi thổi qua ông. Ông
gắng sức chạy nhanh đến núp sau một thân cây nhỏ trong khi những đống bụi đen
của con quái vật một lần nữa lại tụ hợp thành một cái bóng mờ nhạt, nó từ từ
tiến về phía hang động. Ông lại nhắm vào nó bắn thêm một lần nữa trước khi nó
khuất dạng, nhưng viên đạn của ông đã bay xuyên qua đám bụi đen trúng vào thành
vách của lối vào hang động. Nó không còn cứng rắn nữa, giờ đây nó chỉ là một đám
mây đen.
Ông chạy đến cửa hang nhìn xuống, trong hang tăm tối ông nghe một tiếng rên rỉ
yếu ớt rồi lặng thinh. Ông quay lại đi khập khễng về nhà.
Dựa trên nhật ký, ông có đến thăm viếng gia đình cha mẹ người bạn của đứa con
gái và đã giải thích cặn kẽ những sự việc đã xảy ra. Sau đó họ cùng nhau đến
hang động lấy những thân cây gỗ hoặc những tàng cây chết bỏ đầy xuống lỗ để ngăn
chặn bất cứ ‘cái gì’ muốn xuống hoặc ra ngoài hang cho đến khi một công trình
xây cất chắc chắn hơn được dựng lên.
Theo sau là chi tiết về những đám tang, rồi việc bàn thảo về cuộc xây dựng cái
gì đó cứng rắn để đậy lối vào hang động, và vì sao không một ai tin ông về con
quái vật chỉ có bóng thôi. Mọi người trong thị xã đều nghĩ rằng ông ta bị mất
trí vì thấy vợ chết một cách hãi hùng, cũng vì vậy ông đã lẫn tránh những người
chung quanh và xa lánh cả xã hội; nhưng, ông ta lúc nào cũng quyết tâm điều tra
xem ‘cái gì’ ở trong hang. Ông nghiên cứu các sách vở trong thư viện của thị xã,
xem tất cả các sách thời Trung Cổ, sách Thánh Kinh, kể cả những sách thần thoại,
nhưng ông không tìm thấy được một chút gì diễn tả giống như ông đã nhìn thấy và
kinh nghiệm được.
Cho đến một ngày mùa đông, vài tháng sau, khi ông ta nghe có người gõ cửa đó là
lúc ông tìm được câu trả lời.
Nhật ký của ông ghi lại rằng một người Mỹ da đỏ địa phương, có cha mẹ đã ở lại
đó khi bộ lạc Arapaho bị đuổi để đến vùng đất dành riêng cho người
da đỏ tại Oklahoma, đã nghe được câu chuyện của ông. Ông này đã xác nhận và biết
về nguồn gốc của con quái vật; đó là một truyền thuyết được truyền từ đời này
sang đời khác trong lạc bộ của ông ta, và họ đã sống chung quanh trên vùng đất
này cả ngàn năm. Họ gọi con quái vật đó là Grosslor nghĩa là con ăn linh-hồn:
con quái vật này có năng lực phi thường, nó nằm lì dưới hang qua nhiều thập niên
và nó chỉ ra ngoài để ăn thịt hay linh hồn của con người sau đó lại trở về một
giấc ngủ dài.
Những người gọi là Shamans đã giữ bùa và những câu thần chú trong một thời gian
khá lâu để kiềm chế con ăn linh-hồn trong sự kiểm soát và giới hạn năng lực của
nó, bắt nó phải ngưng hoạt động hàng trăm năm. Không may, việc dời đi của bộ lạc
Arapaho đã làm con quái vật ấy lấy lại lực lượng và nó bị đánh thức bởi đứa con
gái của ông và người bạn khi chui vào hang động.
Với sự hiểu biết trong tay, ông đi đến tiểu bang Oklahoma hy vọng có thể bàn
thảo với những người vẫn còn biết bùa chú để kiềm chế con quái vật. Khi đến
Oklahoma ông được một người đàn ông tên là Hache-hi là một người không những có
thể thuật lại từng chi tiết về con ăn linh-hồn mà còn biết được những câu thần
chú đã truyền xuống từ ông nội của ông ta. Hiển nhiên, người dùng những bùa phép
này sẽ bị trói buộc với con quái vật trong một phương pháp được sắp đặt sẵn, cho
dù đến chết cả hai vẫn không ngừng vật lộn và chống chọi nhau. Linh hồn của
người dùng bùa phép sẽ tồn tại sau khi chết để chế ngự con quái vật, và sợi dây
đời sống của người Shamans sẽ tiếp tục nếu cần thiết để giữ cho linh hồn sống
động trên cõi giới hiện hữu này; vì không có sự duy trì thì linh hồn sẽ từ từ
tan biến và qua bên cõi giới khác, lúc đó không còn gì tồn tại để kiềm chế con
ăn linh-hồn.
Gia đình của ông đã đi về bên kia thế giới, ở trong vùng lại không có ai tin câu
chuyện ông kể, vì vậy ông quyết định rời bỏ căn nhà đã một lần cùng vợ con sinh
sống hạnh phúc để một mình đi vào rừng và dựng lên một căn chồi thô sơ gần cửa
hang của con quái vật. Ông sinh sống ở đó và thường xuyên làm bùa phép đọc thần
chú, và ngăn ngừa những người muốn vào hang động. Ông ta quyết tâm dành hết cuộc
đời của mình để bảo vệ khu vực này không cho con quái vật lộng hành nữa. Vì
không có ai tiếp nối coi chừng sau khi ông lìa đời nên ông đã khắc những dấu
hiệu bùa chú trên tấm gỗ đậy hang và trên vách tường sau căn chồi đối diện cửa
hang, ồn hy vọng rằng nó sẽ giúp giữ linh hồn ông lại sau khi chết cũng như có
thể kiềm chế con quái vật trong ngục tù của nó.
....
Mặc dù tôi và Paul đã phá vỡ tấm ván gỗ đậy hang và bùa phép đã khắc trên đó
nhưng vẫn còn đủ năng lực để ông trở lại cõi giới hiện hữu này để kiềm chế con
quái vật một lần nữa, sau đó những dấu hiệu bùa phép lại hiện lên tươi mới và rõ
ràng hơn...
Sau khi đọc nhật ký và hiểu rõ nguồn gốc của những sự việc đã xảy ra, tôi và
Paul cảm thấy rất an toàn khi trở lại nơi đây để thám hiểm thêm, và chúng tôi đã
tìm thấy cách căn chồi không xa có hai tấm bia đá không tên (có lẽ đó là hai tấm
bia đá để kỷ niệm vợ và con gái ông) nằm trên khu đất mà chúng tôi nghĩ rằng đó
là căn nhà hạnh phúc mà ông già đã ở giờ đây chỉ còn trơ trội lại mấy cái chân
nền.
Chúng tôi không bao giờ kể chuyện này cho người khác nghe, vì ai mà tin chúng
tôi chứ?
Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn có nhiều nghi vấn chưa được giải đáp. Thí dụ như là
con vật đó từ đâu đến? Nó là một con quái vật thiên nhiên của địa cầu, một con
ác quỷ, một người ngoại tinh, hay là một con quái vật thời tiền sử? Tại sao con
quái vật kia không giết chúng tôi khi chúng tôi bị kẹt ở trong hang... có thể nó
không đủ năng lực chăng? Điều kỳ lạ làm tôi đau đầu nhất là tiếng nói của đứa
con gái. Có lẽ đó là hồn ma của cô gái con ông già???
Tôi biết rằng trên Địa Cầu này vẫn còn nhiều thứ để cho chúng
ta khám phá và tìm hiểu. Có phải thể xác thì vô thường còn linh hồn mới là
trường tồn không?